Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG. Chính sách và quy định chung; Bảo mật thông tin khách hàng; Chính sách bảo hành - bảo trì; Chính sách đổi - trả hàng - hoàn tiền; Chính sách vận chuyển - giao nhận - cài đặt; Quy định và hình thức thanh toán
Nghị định số 109/2021/NĐ-CP ngày 08/12/2021 của Chính phủ quy định cơ sở y tế đủ điều kiện xác định tình trạng nghiện ma túy và hồ sơ, trình tự, thủ tục xác định tình trạng nghiện ma túy Thành lập Hội đồng thẩm định Quy hoạch hệ thống cơ sở xã hội nuôi
Theo đó, từ ngày 01/07/2020 mức giảm trừ gia cảnh được quy định như sau: Mức giảm trừ đối với người nộp thuế là 11 triệu đồng/tháng hoặc 132 triệu đồng/năm. Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 4,4 triệu đồng/tháng. Người phụ thuộc là những đối tượng nào?
Quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Căn cứ khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về việc chăm sóc con sau khi ly hôn như sau: "Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Sau khi ly
cash. Xin chào ban biên tập, tôi là Gần đây tôi hay nghe bạn tôi than thở về cuộc sống gia đình và việc nuôi con vì hai vợ chồng bạn tôi đang dự định ly hôn. Tôi vừa nghe được việc có Dự thảo mới liên quan tới việc giải quyết tranh chấp liên quan khi ly hôn. Con của bạn tôi đã được 10 tuổi thì có được lấy ý kiến khi bố mẹ ly hôn không? Việc lấy ý kiến của trẻ chưa thành niên có cần đảm bảo các yếu tố gì không? Tôi cảm ơn! Giải quyết về thỏa thuận nuôi con khi vợ chồng ly hôn theo Dự thảo mới? Quy định về việc thỏa thuận người trực tiếp nuôi con sau khi vợ chồng ly hôn hiện nay? Dự kiến tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí nào? Phương thức cấp dưỡng nuôi con và hiệu lực của việc cấp dưỡng được quy định như thế nào theo Dự thảo mới? Giải quyết về thỏa thuận nuôi con khi vợ chồng ly hôn theo Dự thảo mới?Căn cứ Điều 5 Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định về thỏa thuận nuôi con như sau- Khi giải quyết vụ án ly hôn nếu vợ chồng không thỏa thuận được về người trực tiếp nuôi con chung thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng, nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Tòa án cân nhắc ý kiến của con và đưa ra quyết định, căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con để giao con cho người kia có điều kiện nuôi con tốt hơn trực tiếp nuôi dưỡng. Việc không lấy được ý kiến của các con không phải là căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trường hợp lợi ích của trẻ em xung đột với lợi ích của bố mẹ thì ưu tiên bảo đảm lợi ích của Khi xem xét quyền lợi mọi mặt của con thì Tòa án dựa vào đánh giá tổng hợp dựa theo các tiêu chí sau Ý kiến của con; Quyền của trẻ được sống chung với người trực tiếp nuôi hoặc được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi; mối quan hệ của trẻ với từng người cha hoặc mẹ; khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con bao gồm cả khả năng bảo vệ trẻ khỏi bị xâm hại, sao nhãng, bóc lột; mối quan tâm, chia sẻ của con; sự ổn định, liên tục và giảm thiểu sự xáo trộn với môi trường sống và giáo dục của trẻ; mong muốn của anh, chị, em nếu có được ở cùng nhau; ưu tiên giao tất cả các con cho một bên cha, mẹ trực tiếp nuôi dưỡng để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của trẻ Việc lấy ý kiến của trẻ chưa thành niên cần bảo đảm các yêu cầu sau+ Đảm bảo sự thân thiện và cách thức lấy ý kiến phù hợp để trẻ em có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình; phải lấy ý kiến trẻ em tại Phòng họp riêng mà không có sự tham gia của cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý cho trẻ hợp cần thiết thì có thể mời cán bộ bảo vệ trẻ em cấp xã tham gia để trẻ em thêm tự tin khi bày tỏ ý kiến.+ Không ép buộc trẻ em bày tỏ ý kiến; đồng thời không gây áp lực, căng thẳng cho trẻ em khi bày tỏ ý kiến;+ Cân nhắc ý kiến của trẻ em một cách phù hợp theo độ tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ Để hỗ trợ xây dựng đánh giá tổng quan theo khoản 2, Toà án cần, theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 72 Luật Trẻ em năm 2016, yêu cầu cán bộ bảo vệ trẻ em cấp xã tìm hiểu và cung cấp thông tin về tình trạng cá nhân và gia đình của đứa trẻ để đưa ra quyết định phù hợp. Đề xuất hướng dẫn giải quyết tranh chấp quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn Dự kiến?Quy định về việc thỏa thuận người trực tiếp nuôi con sau khi vợ chồng ly hôn hiện nay?Căn cứ Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về việc nuôi con sau khi ly hôn như sau“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”Dự kiến tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí nào?Căn cứ Điều 6 Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định về cấp dưỡng nuôi con như sauTiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền thức cấp dưỡng nuôi con và hiệu lực của việc cấp dưỡng được quy định như thế nào theo Dự thảo mới?Căn cứ Điều 7, Điều 8 Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình quy định phương thức cấp dưỡng nuôi con như sau- Phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng hàng tháng hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và điều kiện của người cấp Thời điểm cấp dưỡng nuôi con thực hiện theo thỏa thuận của các bên. Nếu các bên không có thỏa thuận thì thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra bản án, quyết vậy, Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình đã đề xuất rất chi tiết về việc hướng dẫn giải quyết tranh chấp quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn, trong đó nổi bật là quy định về việc lấy ý kiến của trẻ chưa thành niên khi bố mẹ ly hôn, đây là một điểm mới so với Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành.
Mục lục1. Cấp dưỡng nuôi con là gì?2. Quy định về mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu sau ly hôn3. Cách tính tiền cấp dưỡng nuôi con4. Phương thức cấp dưỡng nuôi conCấp dưỡng định kỳCấp dưỡng một lần5. Không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn bị xử lý như thế nào? Xử phạt hành chínhXử lý hình sựQuy định mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu thay đổi theo thời gian khác nhau phù hợp thực tế. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều trường hợp sau khi ly hôn, cha, mẹ không quan tâm đến con cái, bỏ mặc, không thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng của họ đối với con. Vì thế, việc nắm vững các quy định pháp luật mới nhất năm 2022 về vấn đề này giúp đảm bảo quyền lợi của con. Cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật 1. Cấp dưỡng nuôi con là gì? Căn cứ theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về định nghĩa cấp dưỡng như sau Điều 3. Giải thích từ ngữ Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau 24. Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này. Như vậy, cấp dưỡng nuôi con là quan hệ giữa bố hoặc mẹ đối với con, là việc bố hoặc mẹ có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con khi không sống chung với bố hoặc mẹ. Mối quan hệ giữa con và bố hoặc mẹ có thể là huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc con gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này. Như vậy, điều kiện để phát sinh trợ cấp nuôi con sau ly hôn bao gồm Người cấp dưỡng bố hoặc mẹ không trực tiếp nuôi người được cấp dưỡng con. Người cấp dưỡng bố hoặc mẹ có mối quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng đối với người được cấp dưỡng con. Con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc con gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. 2. Quy định về mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu sau ly hôn Mức cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau Điều 116. Mức cấp dưỡng 1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. 2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, theo quy định nêu trên, pháp luật không quy định cụ thể mức cấp dưỡng nuôi con tốt thiểu là bao nhiêu sau ly hôn. Tòa án tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận dựa vào điều kiện, thu nhập của người cấp dưỡng; nếu không thể thỏa thuận, Tòa án sẽ giải quyết. Cấp dưỡng phụ thuộc mức thu nhập của người cấp dưỡng 3. Cách tính tiền cấp dưỡng nuôi con Căn cứ theo Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn cấp dưỡng nuôi con như sau 11. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn Điều 92. Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau đây a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con. b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý. c. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. d. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai. Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Căn cứ theo quy định pháp luật, khi quyết định mức tiền trợ cấp nuôi con, Tòa án căn cứ Thu nhập của người trợ cấp Chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của các con. Vì vậy, mức cấp dưỡng không cao hơn thu nhập của người trợ cấp. Tuy nhiên, trong trường hợp, mức cấp dưỡng nuôi con được Tòa án phán quyết vượt quá khả năng của người cấp dưỡng thì người cấp dưỡng có thể làm đơn đề nghị Tòa án xem xét lại mức cấp dưỡng. Căn cứ theo dự thảo nghị quyết hướng dẫn cấp dưỡng nuôi con, Tòa án ấn định mức cấp dưỡng ít nhất bằng ⅔ mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người cấp dưỡng trong 6 tháng liền kề. 4. Phương thức cấp dưỡng nuôi con Căn cứ theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau Điều 117. Phương thức cấp dưỡng Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, cấp dưỡng được thực hiện theo các phương thức sau Cấp dưỡng định kỳ Là phương thức được ưu tiên sử dụng trên thực tế. Phương thức cấp dưỡng định kỳ tạo điều kiện cho các bên lựa chọn phù hợp với việc thực hiện nghĩa cụ cấp dưỡng. Người cấp dưỡng có thể thực hiện nghĩa vụ định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm…. Phương thức được các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được, Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng theo quy định tại Điều 11 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP. Cấp dưỡng một lần Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 1 lần được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Nghị định 70/2001 của Chính phủ. Theo đó, nghĩa vụ cấp dưỡng một lần được thực hiện trong 4 trường hợp sau Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế và được người cấp dưỡng đồng ý. Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc được Tòa án đồng ý Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản hoặc cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Và người cấp dưỡng hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần và được tòa án chấp nhận. Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ hoặc chồng ly hôn mà có thể trích tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Cấp dưỡng nuôi con định kỳ hàng tháng 5. Không cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn bị xử lý như thế nào? Người cấp dưỡng là bố hoặc mẹ không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn bị xử pháp phụ thuộc theo mức độ nghiêm trọng, bao gồm Xử phạt hành chính Căn cứ theo quy định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử pháp vi phạm hành chính trong hôn nhân và gia đình như sau Điều 52. Hành vi vi phạm quy định trong hoạt động thi hành án dân sự 3. Phạt tiền từ đồng đến đồng đối với một trong các hành vi sau a Không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công việc không được làm theo bản án, quyết định; b Trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp có điều kiện thi hành án; c Không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo quyết định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; d Cung cấp chứng cứ giả cho cơ quan Thi hành án dân sự. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng được Tòa án ấn định bằng bản án có hiệu lực pháp luật nhưng không thực hiện nghĩa vụ, cố tình trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp có điều kiện. Trong trường hợp này, người có nghĩa vụ cấp dưỡng bị phạt tiền từ đồng đến đồng. Xử lý hình sự Căn cứ theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 như sau Điều 186. Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Như vậy, bố hoặc mẹ trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án nhưng có đủ điều kiện để thực hiện thì có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù. Nếu chồng hoặc vợ của bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng cố tình trốn tránh mặc dù có đủ điều kiện thực hiện thì bạn cần thu thập đầy đủ bằng chứng, chứng minh ra Tòa án. Bạn có thể tham khảo dịch vụ thám tử theo dõi của thám tử Toàn Tâm. Chúng tôi sẵn sàng hỗ trợ bạn, cung cấp bạn những bằng chứng chứng minh có lợi hợp pháp trong trường hợp này. Trên đây là các thông tin về mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu và các quy định liên quan đến vấn đề này. Hi vọng qua bài viết, bạn đã có thêm những thông tin hữu ích để đảm bảo quyền lợi của bản thân, của con một cách tốt nhất.
Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn là một nghĩa vụ pháp lý mà cha hoặc mẹ bắt buộc phải làm đối với con, nếu con là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, khi không là người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi đã chấm dứt quan hệ hôn nhân bằng việc đóng góp tiền hoặc hiện vật tương ứng với nhu cầu thiết yếu của con đồng thời phù hợp với khả năng thực tế của mình để bù đắp những tổn thất về mặt vất chất cho con khi con không được chung sống đồng thời với cha và mẹ. 1. Cơ sở pháp lý và vướng mắc trong thực tiễn Đối tượng được cấp dưỡng Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Đối tượng được cấp dưỡng gồm Con chưa thành niên và con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 BLDS năm 2015 thì người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Trường hợp cha, mẹ ly hôn khi con chưa đủ 18 tuổi, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ phải chi trả tiền cấp dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho con cho đến khi con trưởng thành. Tuy nhiên Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 cũng như Luật Trẻ em năm 2016, được sửa đổi, bổ sung năm 2018, không đưa ra khái niệm cụ thể về “nuôi dưỡng” cũng như các tiêu chí để xác định một đứa trẻ sẽ được đảm bảo nuôi dưỡng như thế nào để đáp ứng các điều kiện vật chất tối thiểu, phát triển bình thường. Do đó, trên thực tế, mặc dù có nhiều cha, mẹ có hành vi vi phạm nghĩa vụ “nuôi dưỡng” khi đang sống chung với con nhưng cũng không bị buộc phải cấp dưỡng do không có căn cứ. Đối với con đã thành niên, cha, mẹ vẫn có trách nhiệm phải cấp dưỡng nếu thuộc các trường hợp sau Con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả năng lao động có thể là do sức khỏe yếu, mất sức lao động, bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự... Tuy nhiên, không có khả năng lao động phải đi kèm với điều kiện không có tài sản để tự nuôi mình. Thực tế, có rất nhiều trường hợp con không có khả năng lao động nhưng vẫn có tài sản để tự nuôi mình. Vậy khi nào thì một người được coi là “không có khả năng lao động” và “không có tài sản để tự nuôi mình”. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể để xác định việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha, mẹ đối với con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Thực tế hiện nay, việc nhận định “không có khả năng lao động” tùy thuộc vào sự đánh giá của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong từng vụ án cụ thể. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có đề cập đến tiêu chí đánh giá về “mất khả năng lao động”, cụ thể là Người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên.... Từ đó, có ý kiến cho rằng, khi xác định nếu người thành niên mà thường xuyên cần phải có người chăm sóc và rơi vào những trường hợp như đã liệt kê thì mới xác định họ “không còn khả năng lao động”. Ý kiến khác lại cho rằng, tại tiểu mục mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính quy định “Người tàn tật, không có khả năng lao động theo hướng dẫn nêu trên là những người thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về người tàn tật, cụ thể như sau Người tàn tật không có khả năng lao động là người bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể trực tiếp sản xuất, kinh doanh hoặc người bị khuyết tật, dị tật bẩm sinh không có khả năng tự phục vụ bản thân được cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên xác nhận hoặc bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động”. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người phụ thuộc đang sống xác nhận những biểu hiện cụ thể về sự tàn tật của người phụ thuộc. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ nhằm phân biệt về người tàn tật không có khả năng lao động với người tàn tật vẫn có khả năng lao động. Chúng tôi không đồng ý với các ý kiến nêu trên. Không có tài sản để tự nuôi mình có thể là tài sản gốc nhưng nó không sinh lợi hoặc có sinh lợi và đã được khai thác nhưng vẫn không đủ để đáp ứng các nhu cầu sống thiết yếu, hay có thể có thu nhập nhưng không đáp ứng được các khoản chi tiêu tối thiểu cho cuộc sống. Còn yếu tố “không có khả năng lao động” có thể được đánh giá trên cơ sở họ có thể lao động hay không? Người thất nghiệp có được coi là không khả năng lao động không? Một vấn đề mà chúng tôi đặt ra, đó là đối với con đã thành niên nhưng các con đang là sinh viên của các trường Trung cấp, Cao đẳng, Đại học… thì vấn đề cấp dưỡng đối với các con như thế nào? Trong khi các con đang đi học thì thời gian đâu để các con tự lao động nuôi sống bản thân, mặc dù các con đủ khả năng lao động ở đây tác giả để cập đến điều kiện sức khỏe đủ khả năng lao động của các con thành niên. Mức cấp dưỡng Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy mức cấp dưỡng có thể được thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó. Tức là người không trực tiếp nuôi con có thể thỏa thuận mức cấp dưỡng với con hoặc với người đang trực tiếp nuôi con. Mức cấp dưỡng được xác định căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, nếu các bên không tự thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng này cũng có thể thay đổi do thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Trước đây, Nghị quyết số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hướng dẫn như sau “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý”. Thực tiễn giải quyết tại các Tòa án trước đây và hiện tại thường vận dụng quy định tại khoản 2, phần III của Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là “Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế nói chung và thu nhập nói riêng của người nuôi dưỡng con. Trong đó mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới 1/2 một phần hai mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con”. Hiện nay, chưa có văn bản nào quy định cụ thể mức cấp dưỡng cho con sau khi bố mẹ ly hôn nên để xác định mức cấp dưỡng cụ thể, Tòa án thường căn cứ vào chứng từ, hóa đơn... liên quan đến chi phí hợp lý để nuôi dưỡng, chăm sóc con và thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuy nhiên, chúng tôi đã đọc và nghiên cứu khá nhiều Bản án, Quyết định của nhiều Tòa án ở các địa phương khác nhau về phần mức cấp dưỡng cho con và thấy rằng các đương sự thỏa thuận và Tòa ấn định mức cấp dưỡng nói chung còn rất thấp, chủ yếu thỏa thuận và ấn định mức cấp dưỡng chung, chung hoặc bằng một tháng lương tối thiểu là chung ... Với mức cấp dưỡng như vậy thì có đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng hay không trong bối cảnh kinh tế xã hội như hiện nay. Tác giả đặt ra giả thiết với mức cấp dưỡng như vậy mà người được cấp dưỡng đang sống tại các địa phương có đời sống “đắt đỏ” như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng… thì sẽ ra sao? Bên cạnh đó, nhiều vụ việc khi xác định mức cấp dưỡng cho con chưa tương xứng với khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tòa án ấn định mức cấp dưỡng chỉ xem xét thu nhập, khả năng của người có nghĩa vụ mà không xem xét tới nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương, trẻ em rất cần được quan tâm, hỗ trợ kịp thời, đúng lúc. Hiện nay Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam tập trung bảo đảm quyền được sống còn và quyền được phát triển của trẻ em Bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc sống bình thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất. Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức khỏe. Trẻ em phải được khai sinh ngay sau khi ra đời; Những điều kiện để trẻ em có thể phát triển đầy đủ nhất về cả tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham gia các hoạt động văn hóa, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát triển hài hòa. Theo tác giả, khi giải quyết Tòa án nên mạnh dạn ấn định mức cấp dưỡng nuôi con phù hợp với mức đáp ứng nhu cầu thiết yếu để con có điều kiện vật chất, tinh thần tốt hơn phù hợp với xu thế phát triển của tình hình kinh tế chính trị đất nước Việt Nam nói riêng và toàn thế giới nói chung. Phương thức cấp dưỡng Việc cấp dưỡng được thực hiện theo các phương thức quy định tại Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, cấp dưỡng được thực hiện theo hai phương thức sau đây Cấp dưỡng theo định kỳ Đây là phương thức ưu tiên và thường được sử dụng trên thực tế. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình được quy định rất mềm dẻo, linh hoạt được quy định tại Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 tạo điều kiện cho các bên lựa chọn phương thức dễ dàng, thuận lợi, phù hợp nhất trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Các bên được thỏa thuận về nghĩa vụ cấp dưỡng bằng tiền hoặc tài sản theo phương thức định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm. Việc lựa chọn phương thức nào trước hết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, nếu các bên không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết căn cứ vào mức thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng như chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng trừ trường hợp cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ li hôn theo Nghị quyết 02/2000 của HĐTPTANDTC, khi các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng. Cấp dưỡng một lần Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần được quy định rất cụ thể tại khoản 2 Điều 18 Nghị định 70/2001 của Chính phủ. Theo đó việc nghĩa vụ cấp dưỡng một lần được thực hiện trong 4 trường hợp Nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng thực tế và được người cấp dưỡng đồng ý; Theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và được Tòa án đồng ý; Theo yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có các hành vi phá tán tài sản hoặc cố tính trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần và được tòa án chấp nhận; Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể trích phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con thì có thể thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần. Khoản cấp dưỡng một lần có thể gửi tại ngân hàng hoặc giao cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ quản lí theo yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Người được quản lí có nhiệm vụ bảo quản tài sản và chỉ được trích ra để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Thông thường cấp dưỡng một lần được thực hiện xong thì nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhất định, người được cấp dưỡng để đảm bảo cuộc sống của mình trong những điều kiện đặc biệt khó khăn vẫn có quyền yêu cầu cấp dưỡng tiếp như trong trường hợp người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng do bị tai nạn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà người đã thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần có khả năng thực tế để cấp dưỡng ở mức cao hơn thì phải cấp dưỡng bổ sung theo yêu cầu của người được cấp dưỡng. Ngoài ra Điều 117 còn quy định về thay đổi phương thức cấp dưỡng và tạm ngừng cấp dưỡng. Theo đó, “Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”. Tình trạng khó khăn về kinh tế ở đây phải có thật và vì những lí do chính đáng mất mùa, thiên tai, tai nạn, ốm đau… Pháp luật hiện hành chưa có quy định về thời hạn tạm ngừng cấp dưỡng. Theo tác giả, về thời hạn tạm ngừng cấp dưỡng lấy mốc thời hạn 06 tháng sẽ là một khoảng thời gian phù hợp để người có nghĩa vụ có thể khắc phục những khó khăn đồng thời cũng là khoảng thời gian không dài đủ để không ảnh hưởng quá lớn tới nhu cầu của người được cấp dưỡng. Sau thời hạn 06 tháng, theo yêu cầu của người được cấp dưỡng Tòa án sẽ xem xét đánh giá khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu có lý do thỏa đáng và tùy từng trường hợp cụ thể có thể gia hạn thêm thời gian. Các bên sẽ tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng bù cho thời gian đã tạm ngừng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Thời hạn cấp dưỡng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ quy định về thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng tại Điều 114 mà không quy định thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi vợ chồng ly hôn là bắt đầu từ lúc nào. Vậy Tòa án có ghi thời điểm buộc người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án không. Nếu có thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ lúc nào. Vấn đề này hiện chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nên thực tiễn đang có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất Cho rằng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chỉ có quy định về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng nuôi con do vợ chồng thỏa thuận. Trường hợp không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì pháp luật không có quy định cụ thể thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn từ lúc nào nên Tòa án không cần phải ghi thời điểm vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vào quyết định, bản án của Tòa án. Cho nên thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ ngày vợ hoặc chồng gửi đơn yêu cầu thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự để yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Quan điểm thứ hai Cho rằng mặc dù chưa có quy định cụ thể trường hợp vợ chồng ly hôn có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con thì thời điểm cấp dưỡng nuôi con được tính từ lúc nào, tuy nhiên theo khoản 1 Điều 482 của BLTTDS năm 2015 thì “Những bản án, quyết định sau đây của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị a Bản án, quyết định về cấp dưỡng…”. Từ quy định này có thể hiểu nghĩa vụ cấp dưỡng phải được thực hiện ngay khi Tòa án ban hành bản án hoặc quyết định về cấp dưỡng. Vì vậy, khi ra Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự hoặc ra bản án thì Tòa án cần thiết phải ghi rõ thời điểm cấp dưỡng nuôi con. Thời điểm cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày Tòa án lập biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hòa giải thành hoặc tính từ ngày tuyên án. Cách tính thời điểm như trên sẽ đảm bảo quyền lợi của con hơn là tính từ ngày bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc tính từ ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án như quan điểm thứ nhất. Bảo đảm thực hiện Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng, pháp luật cũng đã ghi nhận một số biện pháp và chế tài xử lý nhằm cưỡng chế, răn đe người có hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng được thực thi hiệu quả hơn trên thực tế. Một là, ghi nhận quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thi hành án cấp dưỡng cho con phải thực hiện nghĩa vụ. Quyền này được quy định cụ thể tại Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hai là, ghi nhận biện pháp trừ vào thu nhập của người có nghĩa vụ tại Điều 78 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014. Ba là, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính, tại Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2 của Chính phủ thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ đồng đến đồng. Bốn là, chế tài xử lý hình sự được cụ thể tại Điều 186 BLHS năm 2015 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”. 2. Một số kiến nghị Thứ nhất Bổ sung giải thích cho hai cụm từ con đã thành niên “không có khả năng lao động” và “không có tài sản để tự nuôi mình” quy định tại Điều 110 Luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo tác giả, cần bổ sung giải thích như sau - Con đã thành niên “không có khả năng lao động” là người từ đủ 18 tuổi trở lên nhưng có khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần; bị bệnh tật thường xuyên đau ốm; dành toàn bộ thời gian tham gia học tập tại các cơ sở đạo tạo như trường đại học, cao đẳng, trung cấp, dạy nghề… dẫn đến không thể tham gia vào các quan hệ lao động tạo thu nhập đủ để nuôi sống bản thân. - Con đã thành niên “không có tài sản để tự nuôi mình” là con từ đủ 18 tuổi trở lên, thực tế không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản đó không sinh lợi hoặc có sinh lợi và đã khai thác theo khả năng của chủ sở hữu nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mình. Thứ hai Cần quy định về thời điểm thực hiện việc cấp dưỡng cho con như sau Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của họ thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Tòa án. Thứ ba Trường hợp đương sự không thỏa thuận được mức cấp dưỡng thì Tòa án căn cứ vào thu nhập thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú mà quyết định mức cấp dưỡng nhưng mức cấp dưỡng không thấp hơn hoặc bằng 01 tháng lương cơ bản hoặc không thấp hơn 1/3 mức thu nhận bình quân trong 03 tháng liền kề với tháng mà Tòa án ra bản án hoặc quyết định của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Thứ tư Theo ý kiến của tác giả, nên bãi bỏ khoản 2 Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP và giữ lại quy định tại điểm a khoản 3 điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP. Bởi lẽ, mức xử phạt trong khoản 2 Điều 54 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì từ đồng đến đồng là quá nhẹ không đủ sức răn đe, trong khi đó mức xử phạt tại điểm a khoản 3 Điều 52 Nghị định 110/2013/NĐ-CP là từ đồng đến đồng. Mức phạt này tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay cũng như đủ sức răn đe người có hành vi vi phạm tránh tình trạng tái diễn hành vi vi phạm nhiều lần trên thực tế. Qua học tập, nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua qua, tác giả nhận thấy còn một vài vướng mắc nêu trên. Qua bài viết này tác giả rất mong sớm nhận được sự phản hồi của các đọc giả và mong thời gian tới sẽ có những hướng dẫn, bổ sung kịp thời để công tác xét xử được thống nhất./. TAND huyện Trần Đề, Sóc Trăng xét xử vụ án dân sự “Về thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn” - Ảnh Lý Thị Thanh Hoa
Xác định mức cấp dưỡng cho con thế nào sau ly hôn?Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu $YEAR. Khi cha mẹ ly hôn, các bên vẫn phải có nghĩa vụ chăm sóc con cái theo quy định của pháp luật. Trong đó bao gồm cả việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Vậy cấp dưỡng là gì? Mức cấp dưỡng cho con tối thiểu năm 2023 là bao nhiêu? Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây cùng định về tiền cấp dưỡng nuôi con 20231. Cấp dưỡng là gì?Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 20233. Sắp có mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 2023?Quy định về tiền cấp dưỡng nuôi con 20231. Cấp dưỡng là gì?Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi dưỡng được định nghĩa trong Khoản 24 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 như sauCấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về nghĩa vụ của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho vậy, qua các quy định trên có thể hiểu Cấp dưỡng cho con là việc cha mẹ có nghĩa vụ đóp góp tiền hoặc tài sản để nuôi dưỡng con chưa thành niên, con không có khả năng lao động hoặc khó khăn túng thiếu... sau khi ly 107 Luật HNGĐ quy địnhNghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh nghĩa vụ thì theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy Mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 2023Hình ảnh minh họa về cấp dưỡng nuôi con sau ly hônCăn cứ Điều 116 Luật HNGĐ quy định về mức cấp dưỡng như sau1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải vậy, hiện nay pháp luật chưa có quy định chi tiết về mức cấp dưỡng tối thiểu mà trao quyền cho các bên có liên quan, cụ thể ở đây là cha mẹ tự thỏa thuận về số tiền cấp dưỡng cho căn cứ vào sự đồng thuận của 2 bên và thu nhập của người không nuôi con để quyết định mức cấp dưỡng cho con. Vì nếu quy định chi tiết mà mức cấp dưỡng lại quá cao, quá khả năng chi trả của người cấp dưỡng thì rõ ràng là việc cấp dưỡng sẽ không thể thực hiện được trên thực tế, hoặc cấp dưỡng sẽ không lâu dài, ổn Sắp có mức cấp dưỡng nuôi con tối thiểu 2023?Mặc dù pháp luật nước ta chưa có văn bản quy định chi tiết về mức cấp dưỡng tối thiểu cho con là bao nhiên, hiện nay Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đang lấy ý kiến của nhân dân đối với dự thảo Nghị quyết hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình, trong đó, đề xuất mới về tiền cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn như sau- Theo dự thảo, tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền Năm 2023, mức lương cơ sở đang áp dụng là đồng/tháng. Như vậy, nếu trường hợp Tòa án quyết định mức cấp dưỡng thì sẽ không thấp hơn đồng/ Ngoài ra, dự thảo cũng đề xuất phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hằng tháng, hằng quý, nửa năm, hằng năm hoặc một Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng hằng tháng hoặc phương thức khác phù hợp với nhu cầu, lợi ích của con và điều kiện của người cấp thảo quy định này thực sự rất sáng tạo, thể hiện sự bám sát với thực tế của các quy định pháp luật. Với mức cấp dưỡng ít nhất bằng 2/3 mức lương cơ sở và không được thấp hơn 30% mức thu nhập bình quân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong 06 tháng liền kề thì cha mẹ hoàn toàn có đủ khả năng chi trả, chu cấp cho con thời quy định này cũng đảm bảo quyền lợi tối thiểu nhất trên phương diện pháp lý cho trẻ em - đối tượng cần được chăm sóc, yêu thương, còn non nớt và dễ bị tổn thương khi cha mẹ ly rằng quy định nhân văn mang đậm tính hiện thực và tiến bộ xã hội này sẽ sớm có hiệu lực chính bạn đọc tham khảo các bài viết liên quan tại mục Hỏi đáp pháp luật và của nào bị tước quyền nuôi con 2023?Điều kiện để có quyền nuôi con khi ly hôn 2023Cha mẹ ly hôn phải cấp dưỡng cho con đến bao nhiêu tuổi?Mức cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn 2023
Khi vợ chồng ly hôn thì vấn đề con cái ai là người nuôi dưỡng bắt buộc phải được xem xét ai là người nuôi dưỡng. Theo đó mức cấp dưỡng nuôi con khi khởi kiện ly hôn được quy định như thế nào? Công ty Luật Long Phan sẽ tư vấn qua bài viết sau. Xác định mức trợ cấp nuôi con khi ly hôn Mục LụcQuy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hônMức cấp dưỡngDo hai bên thỏa thuậnDo Tòa án xác địnhPhương thức cấp dưỡng nuôi con sau ly hônKhởi kiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 định nghĩa cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này. Như vậy, có thể hiểu cấp dưỡng nuôi con là việc cha hoặc mẹ có nghĩa vụ đóng góp tiền bạc, tài sản để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con khi không sống chung trong trường hợp con là người chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ, do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng, thì Tòa án cần giải thích quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Trường hợp Tòa án xét thấy việc không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có khả năng, điều kiện nuôi dưỡng thì Tòa án không bắt buộc bên còn lại phải cấp dưỡng nuôi con. Theo quy định tại Điều 87 Luật hôn nhân gia đình, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là bắt buộc đối với cha, mẹ, kể cả khi cha, mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên Căn cứ xác định mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn Cách xác định mức trợ cấp nuôi con Tiền cấp dưỡng nuôi con được Theo mục 11 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán quy định tiền cấp dưỡng nuôi con “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý…”. Khi quyết định mức tiền trợ cấp nuôi con, tòa án sẽ căn cứ vào mức thu nhập của người trợ cấp, vì vậy mức cấp dưỡng thường không cao hơn mức thu nhập của người trợ cấp. Tuy nhiên, trong trường hợp mức cấp dưỡng nuôi con tòa án phán quyết vẫn vượt quá khả năng của người cấp dưỡng thì người cấp dưỡng có quyền làm đơn đề nghị tòa án xem xét lại mức cấp dưỡng. Tòa án căn cứ vào độ tuổi của người con được trợ cấp để xác định mức cấp dưỡng cho con. Tòa án cũng căn cứ vào điều kiện sống của người con, mức cấp dưỡng không có sự thay đổi quá lớn ảnh hưởng đến cuộc sống của con. Mức cấp dưỡng Tại Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định về mức cấp dưỡng nuôi con cụ thể như sau Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo quy định trên, mức trợ cấp cho con sau ly hôn được xác định theo một trong hai cách như sau Do hai bên thỏa thuận Hai bên vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau về số tiền cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn. Việc thỏa thuận mức trợ cấp phải căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người thực hiện cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của con để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của con. Do Tòa án xác định Trong trường hợp hai bên không thể thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án xác định mức cấp dưỡng cho con khi ly hôn. Tòa án cũng sẽ dựa trên thu nhập lao động thực tế của người thực hiện cấp dưỡng và xác minh nhu cầu của con để xác định mức cấp dưỡng. Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn có thể được thay đổi khi có lý do chính đáng. Các bên có thể thỏa thuận về việc thay đổi mức cấp dưỡng. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì các bên yêu cầu Tòa giải quyết. Phương thức cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn Theo quy định tại điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Phương thức cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án xem xét điều kiện của người có nghĩa vụ trợ cấp để quyết định phương thức cấp dưỡng nuôi con cho phù hợp. Trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì các bên thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng và tạm ngừng cấp dưỡng. Nếu các bên không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Khởi kiện yêu cầu cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn Tòa án xét xử yêu cầu cấp dưỡng nuôi con Hồ sơ yêu cầu cấp dưỡng sau khi ly hôn bao gồm Đơn khởi kiện về việc cấp dưỡng Đơn khởi kiện mẫu số 23 – DS ban hành kèm theo Nghị quyết 01/2017/NQ – HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao ban hành ngày 13/01/2017 Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu chứng cứ chứng minh kèm theo đơn theo khoản 5, Điều 189, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 Bản sao có chứng thực giấy chứng minh nhân dân; Bản sao có chứng thực sổ hộ khẩu; Quyết định/ Bản án ly hôn; Chứng cứ chứng minh thu nhập của người chồng; Bản sao có chứng thực giấy sinh của con. Căn cứ Các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, thì xác định thẩm quyền nhận đơn khởi kiện như sau Cấp dưỡng được xác định là một tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hôn nhân gia đình trong trường hợp này của bạn là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của bị đơn. Một bên vợ hoặc chồng nộp hồ sơ khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, nếu hồ sơ hợp lệ và vụ việc thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án thụ lí và giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự. Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về nội dung trên, trường hợp bạn đọc có thắc mắc hoặc có nhu cầu được tư vấn pháp luật, vui lòng liên hệ Công ty Luật Long Phan qua hotline 1900, để được hỗ trợ. Xin cảm ơn./.
quy định về mức cấp dưỡng nuôi con